Feb 11, 2011

Cây Đinh Lăng - vị thuốc quý

Cây Đinh Lăng Không chỉ là cây cảnh thông dụng, cây rau được ưa dùng, đinh lăng còn là một vị thuốc nam có tính năng chống dị ứng, giải độc thức ăn, chống mệt mỏi và làm tăng sức dẻo dai của cơ thể.

Đinh lăng còn được gọi là cây gỏi cá. Cây có lá kép, mọc so le, lá 3 lần xẻ lông chim, mép khía có răng cưa. Hoa nhỏ màu trắng, mọc thành tán. Quả dẹt, dài 3-4mm, dày khoảng 1mm. Lá đinh lăng phơi khô, nấu lên có mùi thơm đặc trưng, dân gian gọi nôm na là mùi “thuốc bắc”. Lá tươi không có mùi thơm này.

Trong dân gian, đinh lăng thường dùng để trị ho ra máu, chữa tắc tia sữa, làm mát huyết, lợi tiểu, chữa mẫn ngứa. Lá đinh lăng cũng được dùng để nấu canh với thịt, cá để bồi bổ cho sản phụ, người già hoặc người ốm mới dậy.

Theo y học cổ truyền, rễ đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết, lá có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ. Nói chung, ngoài tác dụng lương huyết và giải độc thức ăn, những tính chất khác của đinh lăng gần giống như nhân sâm.

Theo nghiên cứu của Học viện Quân sự Việt Nam, dung dịch cao đinh lăng có tác dụng:

- Tăng biên độ điện thế não, tăng tỉ lệ các sóng alpha, bêta và giảm tỉ lệ sóng delta. Những biến đổi này diễn ra ở vỏ não mạnh hơn so với ở thể lưới.

- Tăng khả năng tiếp nhận của các tế bào thần kinh vỏ não với các kích thích ánh sáng.

- Tăng nhẹ quá trình hưng phấn khi thực hiện phản xạ trong mê lộ.

- Tăng hoạt động phản xạ có điều kiện gồm phản xạ dương tính và phản xạ phân biệt.

Nhìn chung, dưới tác dụng của cao đinh lăng, vỏ não được hoạt hóa nhẹ và có tính đồng bộ, các chức năng của hệ thần kinh về tiếp nhận và tích hợp đều tốt hơn.

Một vài đơn thuốc có sử dụng Đinh Lăng

Bồi bổ cơ thể, ngừa dị ứng

Lá đinh lăng tươi từ 150-200 g, nấu sôi khoảng 200 ml nước. Cho tất cả lá đinh lăng vào nồi, đậy nắp lại, sau vài phút, mở nắp và đảo qua đảo lại vài lần. Sau 5-7 phút, chắt ra để uống nước đầu tiên, đổ tiếp thêm khoảng 200 ml nước vào để nấu sôi lại nước thứ hai. Cách dùng lá tươi thuận tiện vì không phải dự trữ, không tốn thời gian nấu lâu, lượng nước ít, người bệnh dễ uống nhưng vẫn đảm bảo được lượng hoạt chất cần thiết.

Chữa tắc tia sữa

Rễ đinh lăng 40 g, gừng tươi 3 lát, đổ 500 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.

Chữa nổi mề đay, mẩn ngứa do dị ứng

Lá đinh lăng khô 80 g, đổ 500 ml nước sắc còn 25 0ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày.

Ho suyễn lâu năm

Rễ đinh lăng, bách bộ, đậu săn, rễ cây dâu, nghệ vàng, rau tần dày lá tất cả đều 8 g, củ xương bồ 6 g; Gừng khô 4 g, đổ 600 ml sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.

Phong thấp, thấp khớp

Rễ đinh lăng 12 g; Cối xay, hà thủ ô, huyết rồng, cỏ rễ xước, thiên niên kiện tất cả 8 g; Vỏ quít, quế chi 4 g (Riêng vị quế chi bỏ vào sau cùng khi sắp nhắc ấm thuốc xuống). Đổ 600 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Cây đinh lăng - thuốc bổ trời cho



Chất bổ chứa trong cây đinh lăng rất giàu, được ví như cây nhân sâm. Khoa học hiện đại xét nghiệm thấy các thành phần hoá học chứa trong rễ cây đinh lăng có 0,3% glucô và ancaloit, saponin, ta min, các axitamin và vitamin B1.

Bộ phận được dùng để bào chế thuốc trong cây đinh lăng là rễ cây (chỉ nên lấy rễ từ cây 3 năm tuổi trở lên). Thường đào lấy rễ cây đinh lăng vào mùa thu hoặc đã sang đông. Vì thời gian này hoạt chất tập trung ở rễ và rễ cũng mềm hơn.

Sau khi lấy rễ, rửa sạch, băm nhỏ rồi phơi khô hoặc sấy khô. Khi sao có thể tẩm rượu rồi sao. Thân và lá cây đinh lăng cũng có thể dùng làm thuốc. Lá đinh lăng non được dùng ăn sống với nem chua hoặc gỏi cá. Luộc chấm muối vừng ăn như một thứ rau rất ngon, bùi và bổ.

Các nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu dùng đinh lăng bào chế ra thuốc tăng lực. Thuốc có tác dụng kích thích ăn ngon miệng, ngủ tốt, lên cân, sức khoẻ được phục hồi nhanh, nhất là sau khi mổ hoặc vừa ốm dậy. Đinh lăng bào chế thành thuốc bột, viên thành viên hoặc ngâm rượu dùng rất an toàn, không có độc tố. Đinh lăng còn có tác dụng an thần, chống sốt rét. Rễ cây đinh lăng còn trị được ho, lợi tiểu, thông sữa chữa kiết lỵ. Đinh lăng giã nát để đắp lên vết thương. Lá đinh lăng pha như pha trà uống hàng ngày rất tốt. Dùng rễ đinh lăng pha như pha trà uống hàng ngày còn tốt hơn, nhiều hoạt chất hơn.

Thuốc quý từ cây đinh lăng



Trong cây đinh lăng, người ta đã tìm thấy được các chất như alcaloit, glucoxit, saponin, tanin, vitamin B1 và 13 loại axit amin, đặc biệt có những axit amin quý không thay thế được như: lyzin, xystei, methionin. Cây trồng lâu năm có đủ giá trị dược dụng (thường cây sống trên 10 năm trở lên). Để có đủ tất cả tính dược lẫn hoạt chất, cây phải sống trên 60 năm. Cây già cổ sống đến hàng trăm năm có đủ linh khí và trở nên quý hiếm. Về mặt dược dụng, toàn cây đều có tác dụng bổ 5 tạng, giải độc, tiêu thực, tiêu sưng viêm, bổ huyết, tăng sữa.

Vị thuốc đinh lăng không gây nghiện và nhờn thuốc, it độ do không làm tăng huyết áp, luôn ổn định được nhịp tim. Rễ có vị ngọt tính bình, chứa nhiều hoạt chất hơn thân và lá. Lá có vị nhạt hơi đắng và cũng có tính bình. Về tính năng, cây đinh lăng là cây thuốc bổ tăng lực, cường tráng, giúp hô hấp tốt, làm tăng sức chịu đựng của cơ thể, giúp mau chóng phục hồi sức lực, chữa kiệt sức làm cho nhịp tim sớm trở lại bình thường (dùng tốt cho những người lao tâm lao lực, luyện tập trong và sau khi thi đấu thể dục thể thao), chống chịu với gia tốc (đi phi thuyền, máy bay, tàu xe..) chịu sức nóng và giúp điều nhiệt (làm việc trong hầm lò, đi thực địa hoặc du khảo ngoài trời, lao động trên công trường, trên độ cao, ngoài đảo xa), chịu áp suất lớn (thợ lặn sâu), tăng sức đề kháng đối với bức xạ siêu cao tần (nhân viên làm việc ở các đài phát thanh, truyền hình, trực ra đa), chống stress, giúp thư giãn và giảm cuồng (trong điều trị bệnh tâm thần). Riêng đối với người bệnh suy mòn, kiệt sức, dùng đinh lăng giúp chóng phục hồi cơ thể, giúp ăn ngon, ngủ tốt, tăng cân. Đối với phụ nữ, làm tăng co bóp tử cung, tăng hưng phấn, giúp thụ thai.

Trong y học cổ truyền thường dùng làm thuốc bổ, trị suy nhược cơ thể, giải độc, tiêu hóa kém, dùng cho phụ nữ chậm mang thai và dùng sau khi sinh đẻ bị thiếu sữa, sản hậu, huyết xông, nhức mỏi tay chân, hỗ trợ sức khoẻ cho người già, trị bệnh phong thấp và bồi bổ cho trẻ con. Ngoài ra còn được dùng làm thuốc chữa bệnh, chữa ho, ho ra máu, chữa kiết lỵ, thông tiểu. Thân và cành cũng được dùng chữa phong thấp, đau lưng. Lá chữa cảm sốt, mụn nhọt, sưng tấy, viêm vú.

Trong dân gian, lá đinh lăng được dùng để lót gối trải giường cho trẻ em đề phòng kinh giật. Đinh lăng còn được dùng để xông ra mồ hôi do cảm phong hàn và chữa chứng chóng mặt, nhai nuốt với một ít phèn chua để trị hóc xương cá, dùng tươi giã nát đắp ngoài trị viêm thần kinh, thấp khớp, các vết thương trầy xước. Đinh lăng còn làm săn da và dưỡng da mặt.

Cách thu hái và chế biến: vào mùa xuân, thu hái rễ to để lột lấy vỏ hoặc thu toàn bộ rễ nhỏ rửa sạch đất cát, đồ chín, thái nhỏ, phơi hay sấy khô là được. Khi dùng nên tẩm nước gừng tươi 5%, sao qua bằng lửa nhỏ rồi tẩm bột mật ong để sử dụng ngay trong một hai ngày. Lá non dùng làm rau ăn ghém, ăn gỏi. Lá già hãm trà hoặc sắc thuốc uống nóng.

- Chữa chứng nóng sốt lâu ngày, nhức đầu, khát nước, ho, tức ngực, tiểu tiện vàng: đinh lăng 30 g, cam thảo 30 g (có thể thay bằng cam thảo đất – cam thảo nam 30 g), vỏ quýt 10 g, lá tre tươi 20 g, rau má tươi 30 g, me chua đất 20 g rồi cho vào nồi đổ ngập nước sắc còn 250 ml chia uống 3 lần trong ngày (có thể thêm sài hồ: lá, rễ, cành – 20 g). Nếu cần tăng cường thong tiểu nhanh trong khi sắc nên bỏ sài hồ và giảm rau má, me chua đất, thêm 50 g rễ tranh hoặc 100 g mía lau và 20 g mã đề (trong trường hợp cấp cứu, không đào được rễ tranh, có thể dùng lá tre và lá tranh để sắc chung cũng hữu hiệu cấp thời).

- Chữa bệnh mệt mỏi, biếng hoạt động: bột rễ đinh lăng 0,5 g đun với 100 ml nước/uống ngày 3 lần. Thông tia sữa, căng vú: rễ đinh lăng 30 – 40 g sắc với 500 ml còn 25 ml, hâm nóng chia ra uống nhiều lần (5 – 8 lần trong ngày), uống trong 2 – 3 ngày. Giúp tăng sữa: lá tươi 50 – 100 g băm nhuyễn với bong bóng lợn trộn với gạo nếp nấu cháo cho sản phụ ăn sẽ tăng nhiều sữa.

- Chữa vết thương trầy xước: rửa sạch vết thương bằng cồn nhẹ và giã nát một nắm đinh lăng đã rửa sạch bằng nước pha cồn dùng đắp từ ngoài rìa vào trong. Vết trầy mau chóng lành và chóng kéo da non. Ngoài ra, người phụ nữ trước và sau khi mang thai dùng định kỳ các bộ phận của cây đinh lăng sẽ giúp an thai trong thai kỳ, sinh nở dễ dàng, cho nhiều sữa tốt, em bé về sau có hệ cơ và hệ tuần hoàn khoẻ mạnh, góp phần giúp trẻ phát triển trí thông minh (cấm dùng cho phụ nữ đang mang thai).

Tác giả: Ks. Lê Thường

No comments: