May 26, 2011

Bệnh chân tay miệng (3 bài)

Bài 1. Phát hiện sớm và đúng bệnh chân tay miệng



Tuy mùa dịch bệnh chân tay miệng mới bắt đầu, nhưng đã có nhiều trẻ em nhập viện với biến chứng nặng. Bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vaccin phòng bệnh, nên cần phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

Virut đường ruột là nguyên nhân chính gây bệnh

Virut Entero 71 được xác định gây bệnh chân tay miệng là một loại virut đường ruột, gây bệnh chủ yếu lây nhiễm qua đường tiêu hóa, trực tiếp phân - miệng hoặc gián tiếp qua nước, thực phẩm, tay bẩn... bị ô nhiễm phân người bệnh. Một số ít trường hợp được ghi nhận lây lan qua đường hô hấp.









Sau khi xâm nhập, virut đến cư trú tại họng và đoạn dưới của ống tiêu hóa. Trong vòng 24 giờ, chúng sẽ xâm nhập vào các hạch bạch huyết tại chỗ và tăng sinh tại đây. Giai đoạn này, virut được tìm thấy trong dịch cổ họng và trong phân của bệnh nhân.

Bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu và gần như quanh năm ở các nước nhiệt đới, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, phổ biến ở trẻ dưới 4 tuổi. Hội chứng này mới được chú ý ở Việt Nam trong vài năm gần đây và thường bùng phát thành dịch mạnh ở các tỉnh phía Nam, ít gặp hơn ở các tỉnh phía Bắc.

Biến chứng viêm não có thể dẫn đến tử vong

Bệnh tay chân miệng do virut Entero 71 gây ra có những triệu chứng ban đầu như sốt nhẹ, sưng miệng, nổi bong bóng nước to khoảng đầu đũa, màu xám, đỏ hình ô van ở vùng mông, gối, lòng bàn tay, lòng bàn chân và thường ấn không đau. Bong bóng nước còn xuất hiện trong miệng, khi vỡ ra gây những vết loét trong miệng. Một số trẻ có kèm nôn ói, tiêu chảy ngay khi nổi bóng nước hay khi bóng nước đã xẹp. Những triệu chứng này khiến nhiều bác sĩ chẩn đoán nhầm là bệnh thủy đậu, nhiễm khuẩn da hay dị ứng...

Sau khi xâm nhập vào cơ thể, đến ngày thứ 3, virut từ các hạch theo máu đến gây tổn thương tại da, niêm mạc, tiếp tục sinh sản rồi gây những triệu chứng đầu tiên.

Các tế bào dưới da và niêm mạc phình to, chứa nhiều dịch tiết, gây hoại tử, phù trong tế bào và quanh tế bào. Tổn thương chủ yếu ở các vùng miệng, tay và chân. Sau khi gây tổn thương da, niêm mạc, virut không nhân lên nữa, cơ thể xuất hiện kháng thể và hiện tượng nhiễm virut chấm dứt.

Ở một số trường hợp, virut từ da, niêm mạc trở vào máu lần thứ 2 để đến hệ thần kinh trung ương gây viêm não, viêm màng não, liệt. Đồng thời, cơ thể sản xuất kháng thể và virut ở da, niêm mạc biến mất. Tuy nhiên, virut ở đường ruột có thể hiện diện kéo dài đến 17 tuần.

Trẻ nhỏ có thể có ban dạng sẩn vùng mông, nơi quấn tã lót. Trong giai đoạn diễn tiến, khi virut gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung ương, trẻ sẽ xuất hiện triệu chứng rối loạn tri giác như lơ mơ, ly bì, mê sảng hay co giật, có nhiều trường hợp trẻ có mạch nhanh nhưng không sốt cao, yếu tay chân, méo miệng. Bệnh nhi có thể tử vong hoặc phục hồi sau một thời gian điều trị, nhưng vẫn còn những rối loạn tâm thần kinh kéo dài.

Phòng bệnh là biện pháp cơ bản

Nếu bệnh do các virut lành tính gây ra, bóng nước tự xẹp đi, bệnh có thể tự khỏi sau 5-7 ngày. Nhưng nếu bệnh do virut Entero 71 gây ra thì có thể bị biến chứng rất nguy hiểm là viêm não, viêm cơ tim, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết rất dễ dẫn tới tử vong.

Trẻ mắc hội chứng chân - tay - miệng thường khỏi trong vòng 1 tuần nếu được điều trị đúng cách, không có biến chứng. Nếu không được điều trị đúng cách hoặc diễn tiến nặng, bệnh sẽ gây những biến chứng rất nặng.

Có những trường hợp mắc bệnh tay chân miệng nhưng rất ít các triệu chứng hoặc không có các biểu hiện dễ nhận thấy như nổi bóng nước, nên nếu thấy trẻ có những triệu chứng bất thường kể trên cần nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện. Gia đình phải theo dõi sát sao trẻ ít nhất trong 8 ngày sau triệu chứng đầu tiên để phát hiện ngay các dấu hiệu biến chứng và đưa trẻ đến bệnh viện để được điều trị kịp thời.

Do đa số bệnh tay - chân - miệng sẽ tự khỏi nên đối với trường hợp không có dấu hiệu của biến chứng có thể điều trị tại nhà bằng thuốc giảm đau, cho trẻ ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu, cố gắng cho trẻ ăn thành nhiều bữa.

Hiện nay bệnh tay - chân - miệng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vaccin phòng ngừa nên cách phòng bệnh tốt nhất là bảo đảm vệ sinh trong ăn uống, cá nhân cho trẻ thật tốt. Cho trẻ ăn uống đầy đủ dưỡng chất, uống nhiều nước. Không cần kiêng gió và ánh sáng. Nên cho trẻ mắc bệnh nghỉ học và không cho tiếp xúc với trẻ khác để tránh lây lan bệnh.

Theo Sức khỏe & Đời sống
Copy từ http://giadinh.net.vn, đăng 6/5/2008

Bài 2. Bệnh chân tay miệng và biến chứng



Bệnh chân tay miệng là căn bệnh thường gặp ở trẻ em và rất nguy hiểm nếu không biết cách phát hiện, phòng tránh và điều trị kịp thời. Nguy hiểm hơn là bệnh có thể để lại biến chứng gây nên viêm màng não, viêm cơ tim… có thể gây tử vong. Vì vậy các gia đình có trẻ nhỏ cần nắm chắc thông tin về căn bệnh này.

Dịch tễ học

Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tuổi và rất ít thấy ở trẻ trên 5 tuổi. Một điểm cần lưu ý là trong một đợt dịch bệnh, trẻ có thể bị mắc bệnh tái đi tái lại nhiều lần cho đến khi được 5 tuổi mới có miễn dịch hoàn toàn với bệnh.

Nguyên nhân gây bệnh

Tác nhân gây bệnh chân tay miệng trước đây được biết là vi-rút Coxsackie. Khảo sát tại bệnh viện nhi đồng đã xác nhận sự hiện diện của Enterovirus 71 và vi-rút Coxsakie trong các đợt dịch bệnh tại TP.HCM.

Sự lây truyền bệnh

Vi-rút gây bệnh có khả năng lây lan rất nhanh qua đường miệng.Trong những đợt dịch, bệnh có thể lây rất nhanh từ trẻ này sang trẻ khác qua các chất tiết mũi miệng, phân hay bọt nước của trẻ bệnh:

Trẻ lành tiếp xúc trực tiếp với trẻ bệnh, bị nhiễm bệnh do nuốt phải nước bọt của trẻ bệnh được văng ra trong lúc ho, hắt hơi

Do trẻ lành cầm nắm đồ chơi, sờ chạm vào sàn nhà bị dây dính nước bọt, chất tiết mũi họng của trẻ bệnh.

Ngoài ra bệnh còn lây cho trẻ qua bàn tay chăm sóc của các cô bảo mẫu.

Vi-rút xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc miệng hay ruột vào hệ thống hạch bạch huyết và từ đó sẽ phát triễn rất nhanh và gây ra các tổn thương ở da và niêm mạc.

Biểu hiện của bệnh

Loét miệng: là các bóng nước có đường kính 2-3 mm Thường khó thấy các bóng nước trên niêm mạc miệng vì nó vở rất nhanh tạo thành những vết loét, trẻ rất đau khi ăn, tăng tiết nước bọt

Bóng nước: từ 2-10 mm, màu xám, hình bầu dục.

Bóng nước vùng mông và gối thường xuất hiện trên nền hồng ban.

Bóng nước lòng bàn tay và lòng bàn chân có thể lồi lên trên da sờ có cảm giác cộn hay ẩn dưới da, thường ấn không đau.

Bệnh có thể biểu hiện không điển hình như: bóng nước rất ít xen kẻ với những hồng ban, một số trường hợp chỉ biểu hiện hồng ban và không có biểu hiện bóng nước hay chỉ có biểu hiện loét miệng đơn thuần.

Diễn tiến và biến chứng của bệnh chân tay miệng

Giai đoạn 1: Các trường hợp ít bóng nước thường có biến chứng

Giai đoạn 2:
Viêm màng não: trẻ cĩ biểu hiện run chi, giật mình nhưng chưa thay đổi tri giác (vẫn tỉnh, không mê).

Viêm não: vật vã, kích thích, chới với, thay đổi tri giác, yếu chi, liệt mặt

Giai đoạn 3:
Giảm chức năng co bóp thất trái trên siêu âm
Phù phế nang, sùi bọt hồng, phù phổi

Giai đoạn 4:
Hồi phục, di chứng hay tử vong

Biến chứng:

Các biến chứng thường gặp là: viêm màng não, viêm não màng não, liệt mềm cấp, viêm cơ tim, phù phổi cấp do thần kinh

Các biến chứng có thể phối hợp với nhau như: viêm não màng não, phù phổi và viêm cơ tim trên cùng 1 bệnh nhân.

Các biến chứng này thường gây tử vong cao và diễn tiến rất nhanh có thể trong 24 giờ.

Theo các nghiên cứu tại Đài loan cho thấy biến chứng nặng thường do Enterovirus 71.

Biểu hiện biến chứng viêm não, viêm màng não

Không có biểu hiện mê sâu

Biểu hiện ban đầu bằng các triệu chứng quấy khóc, ngủ nhiều, hoảng hốt hay giật mình run chi, yếu chi, đứng không vững, đi loạng chọang.

Diễn tiến rất nhanh đến co giật, khó thở, suy hô hấp, rối loạn vận mạch, sốc thần kinh.

Lưu ý: biến chứng viêm não màng não vẫn có thể xuất hiện khi các nốt phỏng nước trên da trẻ đã khô và đóng vảy.

Cần chú ý phát hiện sớm biến chứng viêm vão màng não và đưa trẻ đến bênh viện trong vòng 6 giờ đầu sau khi xuất hiện các biểu hiện của biến chứng để được cấp cứu kịp thời.

Điều trị bệnh chân tay miệng:

Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, việc điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng. Đưa trẻ đến khám bệnh tại các cơ sở y tế. Nếu trẻ được chỉ định chăm sóc tại nhà, cần thực hiện những điều sau đây :

Vệ sinh răng miệng và thân thể, tránh làm nhiễm trùng các bóng nước

Giảm đau, hạ sốt bằng cách lau mình bằng nước ấm, dùng thuốc hạ sốt Paracetamol.

Nghỉ ngơi hợp lý, hạn chế vận động, tăng cường dinh dưỡng, cho ăn thức ăn lỏng, mềm, uống nhiều nước nhất là nước hoa quả.

Không cạy vỡ các bóng nước để tránh nhiễm trùng.

Theo dõi sát để phát hiện các dấu hiệu: dễ giật mình, hoảng hốt, run chi, gồng tự hết, đi loạng choạng, chới với, co giật, da nổi bông, nôn ói nhiều, sốt cao. Khi có các biểu hiện trên đây cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay.

Phòng bệnh chân tay miệng như thế nào?

Hiện nay vẫn chưa có vắc-xin phòng bệnh nên cần thực hiện tốt các biện pháp sau:

Rửa tay: thường xuyên rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước chảy, nhất là trước và sau khi nấu ăn, trước khi ăn và sau khi đi tiêu. Nếu có chăm sóc trẻ thì cần lưu ý rửa tay sau mỗi lần thay tả, làm vệ sinh cho trẻ.

Rửa sạch các dụng cụ, vật dụng, đồ chơi, sàn nhà bằng nước và xà phòng, rồi khử trùng bằng cloramin B 5% (có thể mua tại nhà thuốc tây).

Đeo khẩu trang mũi miệng khi hắt hơi hoặc ho.

Cách ly người bệnh tại nhà cho đến khi khỏi bệnh (thường ít nhất là 7 ngày).

Theo http://meyeucon.org/1625/benh-chan-tay-mieng-va-bien-chung/, 11/2/2010

Bài 3. Bệnh tay chân miệng và nguy cơ viêm não do Enterovirus 71



Theo http://meyeucon.org , ngày 20-01-2011

Bệnh tay chân miệng là một loại bệnh nhiễm trùng rất dễ lây, thường gặp ở trẻ em và trẻ nhỏ. Bệnh được gọi tên như vậy vì các nốt ban (đốm đỏ) xuất hiện đồng thời ở cả tay, chân và miệng.

Nguyên nhân của bệnh tay chân miệng là gì? Bệnh có nguy hiểm không?

Nguyên nhân gây bệnh tay chân miệng là các vi rút thuộc các nhóm vi-rút đường ruột (vi-rút Cocsackie, Enterovirus,…), trong đó thường gặp nhất là vi-rút Cocsackie. Theo tài liệu nghiên cứu của BV. Nhi đồng I TP.HCM năm 2005, tỷ lệ gây bệnh của các loại vi-rút này là: 50% do Cocsackie; 44% do vi-rút Entero 71; 6% còn lại do các vi-rút khác.

Vi-rút Cocsackie là một vi-rút rất lành tính. Các bệnh nhân bị bệnh tay chân miệng do vi-rút Cocsackie thường sẽ tự khỏi trong vòng 7-10 ngày mà không cần điều trị và hầu như không có biến chứng gì.

Tuy nhiên nếu tác nhân gây bệnh là Enterovirus 71 thì rất nguy hiểm. Vi-rút này có thể gây biến chứng viêm màng não, hoặc hiếm gặp hơn là biến chứng viêm não, liệt mềm dạng bại liệt. Biến chứng viêm não do Enterovirus 71 rất nặng, có thể dẫn đến tử vong.

Bệnh tay chân miệng lây lan qua đường nào?

Bệnh tay chân miệng là một bệnh rất dễ lây. Bệnh lây lan trực tiếp từ người sang người, do tiếp xúc trực tiếp với phân, dịch tiết mũi họng, nước bọt, đồ chơi hoặc chất dịch trong các nốt bọng nước của người bệnh.

Thời gian “ủ bệnh” của bệnh tay chân miệng là bao lâu? Bệnh biểu hiện bằng các triệu chứng gì?

Thời gian ủ bệnh là thời gian từ lúc bị lây nhiễm đến khi khởi phát bệnh.

Thời gian ủ bệnh của bệnh tay chân miệng là 3-7 ngày. Bệnh tay chân miệng biểu hiện bằng các triệu chứng sau:

- Sốt nhẹ, chán ăn, đau họng, mệt mỏi, khó chịu, quấy khóc.

- Sau khi sốt 1-2 hôm, bệnh nhi xuất hiện các đốm đỏ trong miệng (ở lưỡi, lợi răng, niêm mạc má, niêm mạc họng). Các đốm đỏ này chuyển dần thành các nốt bọng nước, rồi vỡ ra thành các vết loét khiến trẻ đau miệng, bỏ ăn.

- Một hai hôm sau, bệnh nhi xuất hiện các nốt ban phẳng dẹt, màu đỏ ở da lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng mông, vùng gối. Một số các nốt ban này chuyển thành các nốt bọng nước, kích thước từ 2-10 mm, màu xám, hình bầu dục, ấn không đau.

Bệnh tiến triển như thế nào?

Nếu là bệnh tay chân miệng do vi-rút Cocsackie, bệnh sẽ tự khỏi trong vòng 7-10 ngày sau đó. Nhưng nếu nguyên nhân gây bệnh là Enterovirus 71 trẻ có thể có những biến chứng nguy hiểm như viêm màng não, viêm não… Điều nguy hiểm hơn là các biến chứng này rất khó phát hiện sớm nếu thầy thuốc không có kinh nghiệm, người nhà bệnh nhân không chú ý.

Do đó, khi trẻ bị bệnh tay chân miệng cần theo dõi và quan sát trẻ kỹ trong 8 ngày đầu để phát hiện các dấu hiệu nguy cấp như: nôn ói nhiều, cứng gáy hoặc có những biểu hiện hoảng hốt như nói lảm nhảm, chới với, run chi, co giật, để đưa trẻ đến bệnh viện ngay bởi khi trẻ có biến chứng mà không được điều trị đúng và kịp thời, trẻ có thể bị tử vong ngay trong vài giờ.

Điều trị như thế nào?

Hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu đối với các vi-rút đường ruột gây nên bệnh tay chân miệng. Việc điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng: giảm đau, hạ sốt, tăng sức đề kháng cơ thể.

Làm thế nào để phòng ngừa bệnh? Có thể tiêm vắc-xin để phòng bệnh không?

Cho đến nay thế giới chưa có vắc-xin để phòng ngừa bệnh này. Do bệnh lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với phân, dịch tiết mũi họng, dịch của các nốt bọng nước của người bệnh nên cách phòng bệnh tay chân miệng tốt nhất là:

- Tăng cường vệ sinh cá nhân: Các bà mẹ, các cô giáo, cô bảo mẫu trong nhà trẻ và các trường mẫu giáo phải rửa tay thường xuyên cho bản thân mình và cho trẻ sau mỗi lần thay quần áo, tả lót, sau mỗi lần làm vệ sinh cho trẻ, trước và sau khi ăn.

- Thường xuyên rửa sạch các dụng cụ, vật dụng và đồ chơi của trẻ bằng nước xà phòng, rồi khử trùng bằng dung dịch Cloramin B.

- Thực hiện nghiêm chỉnh 100% việc ăn chín, uống sôi.

- Hạn chế tối đa việc tiếp xúc với người bệnh như hôn, dùng chung các vật dụng, đồ chơi…

- Cho trẻ nghỉ học và cách ly tại nhà một tuần khi mắc bệnh theo hướng dẫn của ngành y tế.

- Các khu vui chơi giải trí, các hồ bơi phải thực hiện nghiêm túc các qui định về vệ sinh môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm. Các hồ bơi phải thực hiện việc khử trùng nước theo đúng qui định hiện hành.

- Khi trẻ có dấu hiệu mắc bệnh phải đến báo ngay cho nhân viên y tế tại trường hoặc trạm y tế nơi cư trú để được chăm sóc chữa trị và được hướng dẫn các biện pháp cách ly phòng tránh lây nhiễm bệnh cho người khác.

Lưu ý

Bệnh tay chân miệng lây lan rất nhanh, có thể có các biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não dễ dẫn đến tử vong. Bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chưa có văc-xin dự phòng. Do đó cần phải:

- Thực hiện đúng và đầy đủ các biện pháp vệ sinh phòng bệnh để hạn chế lây lan bệnh.

- Khi trẻ bị bệnh tay chân miệng, cần theo dõi trẻ sát, phát hiệm sớm các dấu hiệu cấp cứu để kịp thời đưa trẻ đến bệnh viện.

No comments: