May 10, 2011

Ăn dứa (4 bài)

Bài 1. Dứa chữa bệnh nhưng cũng dễ gây bệnh



Dứa có khả năng chữa nhiều bệnh; chẳng hạn dân gian thường dùng rễ dứa làm thuốc lợi tiểu, chữa tiểu tiện khó; dùng dịch ép quả dứa chưa chín làm thuốc tẩy nhuận tràng. Tuy nhiên, loại quả này cũng là nguyên nhân của nhiều vụ ngộ độc.

Dứa rất giàu vitamin B1, B2, C, PP, Caroten, acid hữu cơ và các chất khoáng như sắt, canxi, phospho… Đặc biệt, trong dứa có bromelin - một loại enzym giúp thủy phân protein thành các acid amin, có tác dụng tốt trong tiêu hóa. Ở độ pH 3,3, bremelin tác dụng như pepsin (men tiêu hóa protein của dịch vị), ở pH 6 thì như trypsin (men tiêu hóa protein của dịch tụy). Do đó, sau những bữa ăn có nhiều thịt, nên ăn tráng miệng bằng một vài miếng dứa cho dễ tiêu hóa.


Toàn bộ cây dứa từ lá, quả… đều có bromelin nhưng tập trung nhiều nhất trong lõi quả. Bromelin chịu được nhiệt độ cao, ở pH 3,5 sau khi đun 1 giờ vẫn còn hoạt tính. Trong nhân dân, người ta thường băm một ít dứa ướp vào thịt gia súc già, dai (trâu, bò, lợn…) 30-40 phút, rồi mới đem xào nấu, thịt sẽ rất mau mềm, ăn dễ tiêu hóa. Nghành công nghiệp thực phẩm cũng dùng bromelin làm mềm thịt (tác dụng của bromelin còn mạnh hơn papain của đu đủ) và để thúc đẩy quá trình thủy phân protein trong sản xuất nước chấm.

Dứa có khả năng giải khát, sinh tân dịch và tiêu thực. Dân gian dùng nõn lá dứa non đem sắc uống (hoặc giã ép lấy nước) làm thuốc chữa sốt; quả dứa chín nướng cháy, gọt bỏ vỏ, mỗi ngày ăn 1 quả, ăn trong 4 ngày để chữa huyết áp cao… Đặc biệt, nhiều người dùng quả dứa chín chữa bệnh sỏi thận có hiệu quả: Lấy một quả dứa chín để nguyên vỏ, khoét ở cuống quả một lỗ nhỏ, lấy 7-8 g phèn chua giã nhỏ nhét vào, dùng thân dứa vừa khoét đậy lại, đem nướng trên than hồng (hoặc vùi vào lửa) cho cháy xém hết vỏ, thịt quả chín mềm, để nguội vắt lấy nước uống. Mỗi ngày uống nước của 1 quả, sỏi thận sẽ bị bào mòn dần và tan hết, nếu sỏi nhỏ thì có thể tiểu tiện ra được.

Dứa với y học hiện đại

Từ 1963, bromelin của dứa đã được dùng vào điều trị bệnh rối loạn tiêu hóa dạ dày, ruột. Bromelin làm tăng hệ miễn dịch, ức chế quá trình viêm, làm giảm phù nề và tụ huyết, bôi lên nơi tổn thương (vết thương, vết bỏng, vết mổ) làm sạch các mô hoại tử, mau lành sẹo. Bromelin phối hợp với thuốc kháng sinh trong điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn sẽ làm tăng hiệu quả kháng sinh, phối hợp với một số thuốc điều trị hen (theophyllin, ephedrin…) làm tăng tác dụng chống hen. Mới đây, một nghiên cứu đăng trên tạp chí y học Anh cho biết, qua thử nghiệm trên chuột, các nhà khoa học đã nhận thấy bromelin làm giảm hơn 50% dấu hiệu viêm phổi đối với bệnh hen, và liều lượng càng cao thì hiệu quả càng được cải thiện.

Bromelin còn có tác dụng làm giảm di căn của các bệnh ung thư, liều dùng 200-300 mg/kg thể trọng kết hợp với hóa trị liệu, hay xạ trị. Trong công nghiệp dược phẩm, người ta sử dụng các phế liệu của nhà máy chế biến dứa (vỏ, lõi dứa) để chiết suất bromelin. Nhiều hãng dược phẩm châu Âu đã đưa bromelin trong thành phần thuốc.
Từ thịt quả dứa xay hoặc giã nát, người ta còn dùng làm mặt nạ (đắp lên mặt) nhằm lột nhẹ lớp tế bào sừng phía ngoài, bộc lộ lớp da non phía trong mịn màng và trắng hơn.

Cẩn thận khi dùng dứa

Vì dứa có tác dụng phân hủy fibrin chống tụ huyết nên có tài liệu khuyên: những người có bệnh chảy máu hoặc có nguy cơ chảy máu (người hay chảy máu cam, sốt xuất huyết, vết thương lớn, phụ nữ băng huyết…) không nên ăn dứa.

Không nên ăn dứa tươi vào lúc đói, vì các acid hữu cơ của dứa và bromelin tác động mạnh vào niêm mạc dạ dày, ruột, dễ gây nôn nao, khó chịu.

Trong thực tế, có người ăn dứa đã gặp tai biến, thậm chí tử vong. Sau khi ăn dứa 30-60 phút, họ thấy khó chịu, mệt mỏi, ngứa khắp người, gãi xước da chảy máu vẫn ngứa, nổi mày đay. Về tiêu hóa, có những triệu chứng của ngộ độc thức ăn: đau bụng dữ dội, nôn mửa, ỉa chảy. Về hô hấp, tuần hoàn, có thể có mạch nhanh nhỏ, khó thở, huyết áp hạ.

Nếu ngộ độc nhẹ, khoảng 3 giờ sau, nạn nhân sẽ khỏi. Nếu nặng, nạn nhân khó thở, trụy tim mạch, mê man và tử vong. Vì thế, trong nhân dân, người ta còn cho là nạn nhân ăn phải dứa có nọc rắn phun. Thực ra, thủ phạm là một loại vi nấm có độc tính cao. Vi nấm thường có trên mặt đất ẩm, phát triển mạnh trong mùa hè, trùng với mùa dứa chín. Dứa mọc ở sát đất, thu hái xong cũng để dưới đất, vỏ dứa xù xì, mắt dứa làm thành những cái hốc là nơi cư trú tốt cho nấm. Mặt khác, dịch bào của dứa có độ ẩm, có hàm lượng đường cao và pH acid, là những điều kiện thuận lợi cho nấm độc phát triển. Nếu dứa bị dập nát, dịch bào thấm ra, nấm sẽ phát triển, có điều kiện xâm nhập sâu vào trong quả dứa, gây độc cho người ăn.

Để phòng ngừa tai biến trên, cần chọn dứa tươi và nguyên lành. Không ăn dứa dập nát, gọt dứa phải hết lớp vỏ, cắt sâu cho hết mắt, sau đó xát qua ít muối rồi rửa sạch mới bổ ra ăn. Và không ăn nhiều dứa khi đang đói.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Bài 2. Bà bầu ăn dứa có lợi hay hại?



Nhóm thai phụ mắc chứng bệnh về dạ dày, bị chấn thương liên quan đến gãy xương càng nên hạn chế dứa. Bởi vì, dứa có tính axit mạnh nên ăn nhiều dễ gây tiêu chảy (nhất là khi ăn phải quả dứa còn xanh) hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển của xương.

Lợi ích của quả dứa

Dứa giúp quá trình chuyển dạ dễ dàng hơn: Nguyên nhân là bởi vì, dứa chứa nhiều enzyme bromelain, có tác dụng làm mềm khung xương chậu, dễ chuyển dạ.

Quan niệm sai lầm về ăn dứa khi mang bầu: Có ý kiến cho rằng, ăn dứa sẽ gây nóng trong, dễ làm hỏng thai hoặc nếu người mẹ ăn dứa thì em bé sau khi chào đời sẽ nhiều rôm sảy, mụn nhọt… Các nhà khoa học khuyến cáo, thông tin trên là thiếu cơ sở. Thai phụ không nhất thiết phải kiêng dứa (mà nên sử dụng hợp lý).

Dứa được biết đến như một loại thực phẩm chức năng, hữu ích cho sức khỏe. Nó chứa nhiều vitamin A, C, mangan, kali, magiê… bảo vệ các mô khỏi quá trình oxy hóa dẫn đến những cơn stress. Nghiên cứu mới nhất cho thấy, bromelain trong dứa có tác dụng giảm hiện tượng sưng phù. Ăn dứa cũng có tác dụng giải khát, đẹp da, duy trì cân nặng.

Bà bầu có thể bị dị ứng dứa

Đây là phản ứng của cơ thể với protein có trong dứa. Những biểu hiện của dị ứng dứa là: bạn bị đau bụng, tiêu chảy, có thể xuất hiện ngứa toàn thân; bạn cũng có thể cảm thấy tê lưỡi, khó thở…

Bác sĩ khuyến cáo, để tránh dị ứng dứa: Sau khi gọt vỏ, bạn nên cắt dứa thành từng miếng, ngâm nước muối nhạt 10-30 phút. Làm như vậy không chỉ tránh được hiện tượng rát lưỡi khi ăn dứa; mà còn giúp bạn thấy dứa có vị thơm, ngon hơn.

Nếu có cơ địa dị ứng, tốt nhất, bạn nên sử dụng dứa đã qua chế biến (xào, nấu canh). Dưới tác dụng của nhiệt, khả năng gây dị ứng của dứa sẽ không còn.

Ngộ độc dứa

Các nhà khoa học khẳng định, nguyên nhân ngộ độc dứa không phải vì bản thân quả dứa có chất độc hoặc hoặc do rắn thả nọc độc vào dứa (như nhiều người vẫn suy đoán). Thủ phạm có thể do một loại nấm độc, thường gặp dưới mặt đất – xâm nhập vào dứa qua quá trình trồng hoặc vận chuyển. Loại nấm này phát triển mạnh vào mùa hè, trùng với mùa dứa chín.

Theo Mẹ và bé

Bài 3. Ăn dứa nhiều không tốt cho sức khỏe



Trái dứa do có nhiều vitamine nhưng lại ít calorie nên khá hiệu quả trong việc giúp giảm cân. Nhưng quả dứa nổi tiếng là một loại trái cây rất “sắc”, ăn nhiều không tốt cho bao tử và tránh ăn ngoài giờ bữa cơm.

Trái dứa chứa một loại enzyme (men) phân giải protein rất mạnh, giúp cho cơ thể tiêu hóa chất đạm, nhiều hơn là tiêu mỡ. Tuy dứa có nhiều tác dụng, nhưng ăn dứa trước bữa cơm lại dễ bị rát lưỡi và đôi khi dẫn đến dị ứng cấp tốc.

Theo các nhà nghiên cứu, để tránh bị ngứa ngáy, nổi mề đay, nổi nhọt trên lưỡi thì sau khi gọt vỏ nên cắt dứa thành từng miếng rồi ngâm trong nước muối lạt khoảng chừng 10 phút. Loại enzyme của trái dứa sẽ bị nước muối hóa giải. Cách ngâm này cũng sẽ giúp người ăn không bị rát lưỡi và nước muối làm cho vị dứa thơm và ngọt hơn.

Ngoài ra, để vô hiệu hóa tác dụng của dứa thì chỉ cần xào nấu trái này với hải sản như tôm mực, tác dụng của nhiệt độ sẽ vô hiệu hóa khả năng gây dị ứng của dứa đối với người ăn.

A.Nguyễn (tổng hợp)

Bài 4. Vì sao ăn dứa phải chấm muối?



Sau khi ăn miếng dứa không chấm muối, miệng và lưỡi của bạn có cảm giác tê rát, đó là vì ruột quả dứa không những có rất nhiều đường và vitamin C, mà còn có một chất xúc tác.

Chất xúc tác này đủ mạnh để phân giải lòng trắng trứng, đối với niêm mạc miệng và biểu tầng da non ở lưỡi chúng ta có tác dụng kích thích mạnh.

Muối ăn có thể ức chế hoạt động của chất xúc tác dứa, cho nên khi ăn dứa mà chấm muối thì có thể làm giảm sự kích thích với niêm mạc miệng và lưỡi, đồng thời cũng cảm thấy dứa thơm, ngọt hơn.

(Theo sách 10 vạn câu hỏi vì sao)

No comments: