May 12, 2011

Cận thị, viễn thị, loạn thị (3 bài)

Bài 1. Cận thị, viễn thị, loạn thị: ba tật khúc xạ của mắt


A. Đaị cương

Cận, viễn, loạn thị là các tật khúc xạ của mắt. Khi mắt nhìn một vật thì ánh sáng từ vật đó sẽ xuyên qua không khí, qua các môi trường trong suốt của mắt (giác mạc, thể thủy tinh, dịch kính ) đến võng mạc cảm thụ ánh sáng. Các môi trường trong suốt này có các chỉ số khúc xạ khác nhau, nhưng chúng ta có thể đơn giản hóa: Khúc xạ con mắt như một thấu kính hình cầu có đường kính 5,7mm, tiêu cự sau F , = 22,9mm, công suất hội tụ + 58,2 đi-ốp.


I. Mắt chính thị

Là mắt có cấu tạo hài hòa giữa chiều dài trước sau của nhãn cầu và công suất hội tụ của mắt. Khi đó ảnh cuả một vật ở vô cực (quang sinh lí là 5m) sẽ hội tụ đúng trên võng mạc. Nghĩa là tiêu điểm sau trùng với võng mạc. Lúc đó người ta sẽ thấy ảnh rõ nét.

II. Mắt cận thị

Là mắt có công suất khúc xạ quá mạnh so với chiều dài nhãn cầu, vì thế các tia sáng song song vào mắt sẽ hội tụ trước võng mạc. Nói cách khác, mắt cận thị có tiểm sau trước võng mạc. Ảnh sẽ mờ đi.



Có 2 loại cận thị

Cận thị trục (cận thị đơn thuần) như đã nói trên, là sự mất quân bình giữa chiều dài của mắt và lực khúc xạ của nó. Nhưng 2 chỉ số nầy vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Đây là loại cận thị thường gặp, bắt đầu ở lứa tuổi đi học, nhỏ hơn 6 độ, không có những tổn thương thực thể ở mắt.

Cận thị bệnh lí: chiều dài của mắt quá giới hạn bình thường. Cận trên 6 độ có thể 20 – 30 độ. Có những tổn thương, hư biến ở mắt, có tính di truyền.

III. Mắt viễn thị

Là mắt có có công suất khúc xạ kém so với chiều dài của mắt, vì thế các tia sáng vào mắt sẽ hội tụ sau võng mạc. Nghĩa là tiêu điểm sau nằm sau võng mạc. Nhìn vật thấy mờ, không rõ nét.

Nguyên nhân phổ biến của viễn thị là trục nhãn cầu ngắn. Ở trẻ em mới sinh thường có một độ viễn thị nhẹ từ 2 – 3 độ. Trong quá trình phát triển cùng với sự trưởng thành của cơ thể, nhãn cầu cũng dài thêm ra, mắt sẽ trở thành chính thị. Nếu sự phát triển này không trọn vẹn sẽ gây nên viễn thị.

IV. Mắt loạn thị

Là mắt có hệ quang học không phải là lưỡng chất cầu. Nghĩa là bề mặt giác mạc không phải đồng nhất hình cầu mà có những kinh tuyến với các đường kính khác nhau. Do đó ảnh của một điểm qua hệ quang học nầy không phải một điểm mà là một đường thẳng. Như vậy sự khác nhau giữa viễn thị và loạn thị là sự khác nhau về khúc xạ. Mắt Viễn thị là mắt có khúc xạ lường chất cầu. Còn mắt loạn thị không phải cầu mà có thể coi như nhiều kính trụ chồng lên nhau. Mắt loạn thị có thể đi cùng với cận và viễn thị. Điều chỉnh kính cho mắt loạn thị phức tạp hơn so với mắt cận và viễn.

B. Triệu chứng

Triệu chứng chung của tật khúc xạ là nhìn xa không rõ. Hay mỏi mắt, nhức đầu. Đối với trẻ em, khi thấy các triệu chứng: nhìn chữ trên bảng không rõ, hay nheo mắt, cầm sách đọc quá gần, hay đỏ mắt, kèm với hay than nhức mỏi mắt, nhìn mờ là rất có thể trẻ đã bị tật khúc xạ, cần phải cho trẻ đi khám ngay.

C. Điều trị

Hiện nay có 3 phương pháp để điều trị tật khúc xạ

Cách 1: Đeo kính gọng : là phương pháp đơn giản, ít tốn kém và an toàn nhất. Nó được chỉ định cho mọi lứa tuổi. Tuy nhiên đối với trẻ em nhỏ hơn 5 tuổi, việc xác định chính xác tật khúc xạ của trẻ phaỉ nhờ vào các phương pháp khám khúc xạ khách quan. Bạn nên đưa trẻ đến các bệnh viện có khoa Mắt để được khám chính xác. Tại đó, bác sĩ sẽ nhỏ thuốc liệt điều tiết (trẻ sẽ mờ vài ngày) sau đó sẽ dùng phương pháp soi bóng đồng tử để xác định tật khúc xa. Phương pháp này có giá trị đặc biệt ở trẻ em, người câm, người không trả lời chính xác.

Cách 2: Mang kính tiếp xúc (contactlens): Trong trường hợp không muốn mang kính gọng, không muốn hoặc không có chỉ định mổ, có thể mang kính tiếp xúc.

Cách 3: Phẫu thuật : Được chỉ định cho những trường hợp vì lí do nghề nghiệp hay lí do gì đó mà không muốn mang kính gọng hoặc kính tiếp xúc. Hiện nay phương pháp mổ bằng laser (LASIK) cho kết quả rất tốt.Tuy phương pháp này chỉ được áp dụng cho trẻ lớn hơn 18 tuổi khi mà độ khúc xạ của trẻ ổn định.

D. Dự phòng tật khúc xa chọ trẻ em

Đọc sách phaỉ đủ ánh sáng. Không nên để chói mắt.
Không được ngồi quá gần màn hình tivi, xem tivi quá lâu.
Nên vui chơi giải trí, thể dục ngoài trời haì hoà với việc học tập.
Thức ăn hằng ngày phải đủ dinh dưởng gồm thịt, cá, dầu, các loaị đậu, hoa quả, rau xanh.

Nguồn : http://www.nhattanhospital.com.vn

Bài 2. Khi nào cần mổ cận thị, viễn thị, loạn thị?



Người bị cận thị, viễn thị, loạn thị thường đến cơ sở y tế để mổ lasik. Nhưng không phải ai muốn mổ cũng được và có những trường hợp sau mổ lại phải mang kính... Tại sao? BS Nguyễn Hữu Chức - phó khoa mắt BV Chợ Rẫy - cho biết:

- Hiện nay phẫu thuật bằng laser excimer (phương pháp lasik) được coi là hiệu quả nhất. Tùy theo cận thị, viễn thị hay tật khúc xạ khác, người ta dùng năng lượng (tia) laser để làm thay đổi công suất quang học của giác mạc. Được chỉ định cho các trường hợp cận thị từ -1D đến - 20D, viễn thị từ +1 đến +10 D, loạn thị từ 1D đến 7 D, lão thị theo phương pháp PAC (Pseudo Accomodative Cornea). Bệnh nhân (BN) mổ cận thị phải trên 18 tuổi, có độ cận ổn dịnh.

Chống chỉ định trong các trường hợp: đang có các bệnh cấp hoặc mãn tính tại mắt như viêm kết mạc, viêm giác mạc, viêm màng bồ đào, glaucom, giác mạc hình nón; có các bệnh lý toàn thân ảnh hưởng đến phẫu thuật, đang có thai hoặc trong thời kỳ cho con bú vì trong giai đoạn này có thể sẽ ảnh hưởng làm thay đổi mức độ điều chỉnh sau mổ.

* Vì sao một số trường hợp sau mổ cận thị vẫn phải mang kính?

- Đó là do cận thị quá nặng, khả năng điều chỉnh bằng phẫu thuật không hết. Do chiều dày giác mạc không cho phép điều chỉnh hoàn toàn độ khúc xạ. Ở BN cận trên 7 diop có thể thay đổi độ cận suốt đời, nhưng sau mổ độ cận có thể vẫn cứ thay đổi. Trên BN có giác mạc hình chóp hoặc độ dày giác mạc không cho phép thì cũng không có chỉ định mổ. Vì vậy cần sự nghiêm túc, đúng đắn của thầy thuốc, phải khám thật chính xác trước mổ và tư vấn một cách đầy đủ, trách nhiệm cho người bệnh.

* Có BN bị lóa mắt sau mổ lasik nên gặp khó khăn khi đọc sách?

- Thời gian đầu sau mổ nếu bị lóa mắt, BN nên mang kính mát. Ban đêm cũng mang kính màu nhạt hơn. Hiện tượng lóa mắt này sau 3-6 tháng có thể mất đi hoặc BN đã thích nghi được. Tuy nhiên lóa mắt chỉ xảy ra đối với các máy phẫu thuật lasik thế hệ cũ.

Tại BV Chợ Rẫy vừa hình thành đơn vị phẫu thuật khúc xạ laser excimer, chính thức đi vào hoạt động giữa tháng 7-2006. Máy laser EC -5000 CXIII mới sản xuất năm 2005 với hệ thống phần mềm có nhiều ưu điểm xử lý trong lão thị, loạn thị và các tật khúc xạ kết hợp. Sau khi nạp các thông tin của BN vào máy, máy sẽ cho các thông số về chiều dày giác mạc, mức độ phẳng của giác mạc, tìm được các trục trên mắt loạn thị...

Từ đó máy lên chương trình phẫu thuật rất chính xác, khắc phục được những khiếm khuyết của các thế hệ máy trước, đặc biệt là giảm tối đa hiện tượng lóa mắt sau mổ.

Nhân đây tôi cũng xin có lời khuyên với các bạn trẻ hãy gìn giữ đôi mắt của mình. Hiện nay ở lứa tuổi học sinh cấp I, II bắt đầu mắc cận thị nhiều nhất, đặc biệt ở thành thị cao hơn ở nông thôn. Tốt nhất là nên phòng ngừa bằng cách: phòng học phải đủ ánh sáng, ghế và bàn cân đối với chiều cao của học sinh. Khi đọc sách không nên để quá gần mắt (dưới 35cm), tư thế khi đọc sách phải đúng (không nên nằm). Không ngồi trước màn hình vi tính hoặc tivi quá lâu (trên một giờ)...

Theo Tuoi tre

Bài 3. ĐIỀU TRỊ CẬN THỊ, VIỄN THỊ, LOẠN THỊ



BS. NGUYỄN CƯỜNG NAM, 8/11/2003


PHẦN I: PHẪU THUẬT HAY KHÔNG PHẪU THUẬT?

Vào khoảng từ 10 đến 15 năm nay, với những cuộc cách mạng về tin học thì cũng có những cuộc bùng nổ về phẫu thuật khúc xạ đã giúp ích cho hàng triệu người trên thế giới thoát khỏi tật khúc xạ. Sự gia tăng này được xem là một niềm phấn kích cho các nhà sáng tạo ra cũng như các chuyên khoa nhãn khoa. Các bác sĩ nhãn khoa ngày càng học hỏi nhiều về phẫu thuật khúc xạ và điều chính cần phải biết khuynh hướng của quần chúng ưa thích phẫu thuật ra sao và sự chọn lọc phẫu thuật nào thích hợp trong số hàng ngàn người bệnh với các độ khúc xạ rất khác biệt nhau.

Có khoảng 12 hình thái kết hợp khác nhau của các tật khúc xạ, trong số đó cận thị chiếm khoảng 25% số người lớn trên toàn thế giới như bảng 1 cho biết tình trạng khúc xạ trên toàn nước Mỹ.

Đã có rất nhiều nghiên cứu cho biết tỷ lệ cận thị tăng cao ở giới trí thức, ngoài ra tỷ lệ này lại cao hơn các nước châu Á như Đài Loan và Hồng Kông. Ở TPHCM trong một nghiên cứu mới đây của Hội Nhãn khoa TP cho thấy tỷ lệ này rất cao ở các trường đại học, các trường chuyên cấp III, và ở trên thế giới thì tỷ lệ cận thị mới đây cũng cao hơn so với trước kia như ở Mỹ và châu Á.

Người ta nghĩ rằng tần suất cận thị tăng cao 1 phần là do yếu tố môi trường như làm việc gần mắt nhiều và việc đeo kính.

Hướng dẫn về phẫu thuật khúc xạ

Hiện nay có rất nhiều phương pháp phẫu thuật và mỗi loại phẫu thuật lại thích hợp với 1 loại độ khúc xạ nào đó, mỗi phương pháp đều có những ưu khuyết điểm riêng tùy theo độ khúc xạ và cũng tùy thuộc vào người bệnh.

Ở Việt Nam hiện nay có 3 phương pháp phẫu thuật
Phẫu thuật rạch giác mạc bằng dao kim cương đã có từ 1990
Phương pháp mổ bằng Laser (mới có) với 2 kỹ thuật:
PRK
LASIK

Với 3 kỹ thuật mổ trên thì LASIK có ưu thế hơn nhiều, tuy nhiên không phải bất cứ người bị cận thị nào cũng có thể mổ được bằng LASIK, có khi cần phải mổ bằng PRK hay rạch giác mạc bằng dao kim cương.

Ngoài ra cũng tùy thuộc vào giá cả của mỗi phương pháp có phù hợp với túi tiền của người bệnh hay không.

Thí dụ 1 người bệnh cận thị 3 - 4 độ có thể mổ được cả 3 phương pháp nói trên.

Việc chọn phương pháp nào lại tùy thuộc vào người bệnh, căn cứ trên một số các yếu tố như động cơ đi mổ: vì công việc, vì thẩm mỹ, vì nghề nghiệp với kết cục của phẫu thuật và tiền căn của người bệnh v.v... Quyết định này có liên quan đến việc suy tính lợi hại, những cái được và những nguy cơ có thể xảy ra của từng trường hợp người bệnh và khả năng tài chính của họ.

Thí dụ với người trẻ độ cận 6 độ thì mổ LASIK là tốt nhất. Nhưng với người chơi thể thao hoạt động nhiều như đánh quần vợt hay quyền anh thì mổ PRK hơn là LASIK vì LASIK có thể bị lệch vạt khi bị đụng chạm mặc dù là rất hiếm. Vì vậy khi quyết định mổ phương pháp nào cần phải thảo luận rất kỹ với phẫu thuật viên để hiểu rõ từng phương pháp sao cho phù hợp với mình.

Điều trị không phải mổ: Dùng kính

Người ta chưa biết rõ người phát minh ra kính đầu tiên là ai. Nhưng kính để cho đeo thuộc nhiều dạng khác nhau được mô tả khoảng 700 năm nay.

Đeo kính vẫn là một phương pháp an toàn và có thị lực rõ nhất. Khoảng 18% bệnh nhân đeo kính tiếp xúc. Từ 20 năm qua với loại kính tiếp xúc mềm ngày một phổ biến hơn. Tuy nhiên cũng có một số bệnh nhân không thích hợp với kính tiếp xúc do dị ứng nhất là ở nước ta có bụi bặm nhiều, kính tiếp xúc cũng gây một số biến chứng nguy hiểm nhất là loét giác mạc. Chính vì lý do đó mà một số bệnh nhân không dùng được kính tiếp xúc đã muốn được mổ.

Trong thời gian vừa qua có một số các thí nghiệm được nghiên cứu để làm chậm phát triển độ cận như luyện tập mắt, chỉnh hình giác mạc (làm bẹt giác mạc bằng cách đeo kính tiếp xúc cũng có chiều cong thay đổi dần) và các phương pháp này chỉ có hiệu quả tạm thời mà không điều chỉnh hay giảm được vĩnh viễn độ cận, nhất là độ cận nặng.

Các phương pháp dùng dược chất như nhỏ thuốc co đồng tử hay ngăn chặn thụ thể Beta đã được thử nghiệm nhưng không có kết quả. Việc nhỏ atropin ở trẻ em cho 1 kết quả giới hạn để làm giảm độ cận tăng nhưng lại có nhiều hiệu quả phụ như là nở đồng tử, liệt mi thể và chói mắt.

Kính gọng và kính tiếp xúc hiện nay vẫn là phương pháp điều trị tật khúc xạ phổ biến nhất. Nhưng người bệnh bị tật khúc xạ có thêm bệnh về mắt, bệnh toàn thân, có độ khúc xạ không ổn định và không có đòi hỏi gì về nghề nghiệp thì việc đeo kính vẫn là cách lựa chọn tốt nhất còn phẫu thuật khúc xạ thích hợp cho các người trẻ, có chỉ định rõ ràng, khi đeo kính gọng hay kính tiếp xúc gây phiền toái về công việc, nghề nghiệp hay thẩm mỹ v.v...

NGUYÊN TẰC

LASIK:

Dùng dao vi phẫu để cắt nắp giác mạc mỏng.

Lật nắp giác mạc. Dùng LASER để đốt nhu mô giác mạc làm phẳng giác mạc.

Nắp giác mạc úp trở lại chỗ cũ.

Mắt cận thị sau khi mổ LASIK.

PRK:

Giống như LASIK

Không làm nắp mà chiếu thẳng LASER vào mắt ( H. B ).

PHẦN II: ĂN GÌ KHI CẬN THỊ ?

Ăn nhiều đường làm bệnh cận thị nặng thêm . Người bị cận thị hạn chế ăn quá nhiều đường và đồ ngọt. Ăn nhiều đường ngọt là một yếu tố làm mắt cận thị. Khi cơ thể hấp thu quá nhiều đường sẽ khiến cho hàm lượng vitamin B1 giảm, lâu ngày sẽ ảnh hưởng tới lượng vitamin cung cấp cho thần kinh thị giác, dẫn tới bệnh cận thị nặng thêm.

Theo báo cáo của Hội đồng chống cận thị Nhật Bản, lượng đường nhiều còn ảnh hưởng tới lượng canxi trong cơ thể, làm tăng khả năng đàn hồi của nhãn cầu, đường kính nhãn cầu dễ tăng, mức độ cận thị vì vậy cũng tăng. Bác sĩ B. Lein, nhà nhãn khoa nổi tiếng người Mỹ, dựa trên nhiều số liệu về dinh dưỡng của người bệnh mà ông đã điều trị, khẳng định: bệnh cận thị phát triển không chỉ do mắt mệt mỏi bởi làm việc nhiều quá mà còn do ăn uống không đủ các chất cần thiết. Một chế độ ăn thừa đường, canxi, protein và thiếu crôm sẽ làm cho bệnh cận thị nặng thêm.

Để phòng ngừa cận thị, chế độ ăn uống cần có đầy đủ các vitamin như: vitamin A (có nhiều trong gan cá, gan gia súc gia cầm, lòng đỏ trứng...) có tác dụng hạn chế mức tiến triển của cận thị; vitamin D (có trong dầu cá, bơ, lòng đỏ trứng, gan động vật...) giúp chuyển hoá tốt canxi, củng cố mao mạch hắc mạch mắt, làm dẻo vỏ nhãn cầu phòng ngừa cận thi; vitamin E (có nhiều trong mầm ngũ cốc và có trong đậu xanh, xà lách, ngô, trứng...) giúp tăng cường tổ chức hồ chun của củng mạc mắt và giác mạc. Ngoài ra, người ta cũng dùng vitamin E để hạn chế độ giãn yếu của vỏ nhãn cầu, điều trị cận thị.

PHẦN III: TIỀM HIỂU VỀCẬN THỊ ?

Cận thị là gì?

Cận thị là mắt chỉ nhìn rõ vật ở gần, khi nhìn xa trên 5 mét thì mắt nhìn mờ, và không thấy rõ chữ trên bảng.

Tại sao nhìn xa lại mờ?

Vì mắt cận thị thường là mắt có kích thước lớn. Khi nhìn vật ở xa, ảnh của nó không hiện trên võng mạc của mắt mà lại nằm ở phía trước. Trong khi ở mắt người bình thường, ảnh hiện trên võng mạc thì nhìn rõ; Giống như khi xem phim ảnh không nằm trên màn ảnh mà lại nằm trước màn ảnh nên nhìn thấy mờ, hoặc khi chụp hình canh sai khoảng cách cho hình mờ.

Làm sao nhìn cho rõ?

Muốn nhìn xa cho rõ thì phải dùng kính phân kỳ, tức kính cận đặt trước mắt để đưa ảnh hiện trên võng mạc; giống như chụp hình mờ thì phải canh lại ống kính để ảnh hiện đúng trên phim.

Tại sao lại sinh ra cận thị?

Có 2 lý do chính:

Do di truyền: Nếu cha hoặc mẹ bị cận thị thì con cũng dễ bị cận. Loại này thường bị nặng trên 6 độ, có khi đến 20 độ, được gọi là cận thị bệnh. Tuy nhiên không phải bao giờ cũng vậy, cũng có khi cha mẹ không bị cận thị mà con bị cận thị nặng hoặc có khi con lại bình thường trong khi cha mẹ bị.

Do môi trường, hoạt động, cách sống: Khi học nhiều, làm việc nhiều gần mắt... cũng dễ bị cận thị. Loại cận thị này thường nhẹ, được gọi là cận thị học đường, thường đến 6-7 độ thì ngưng, khi cơ thể hết phát triển vào khoảng 20 tuổi.

Nếu có cả hai yếu tố trên, tức cha mẹ bị cận và lại học quá nhiều thì tỷ lệ cận cao hơn.

Có cách nào tránh được cận thị?

Vì là do di truyền và cách sống không thể ngăn được cận thị ở những người có học. Những nước phát triển, phải học nhiều và làm việc gần mắt nhiều nên tỷ lệ cận thị nhiều hơn so với những nước chậm phát triển. Về nghề nghiệp, những người trí thức cận thị nhiều hơn nông dân, ngư dân...

Có thuốc gì để chữa cận thị?

Vì cận thị là do mắt lớn nên không có thuốc nào uống để cho mắt nhỏ lại, cũng như người cao quá khổ, không có thuốc nào uống để cho người thấp lại được.

Tại sao trẻ con bị cận thị lại tăng độ?

Vì cơ thể trẻ em còn phát triển, phải học hành nhiều nên mắt cũng phát triển theo và độ cận tăng. Ở người lớn cơ thể không phát triển nữa, nên mắt không lớn nữa và độ cận được ổn định không tăng.

Đeo kính thường xuyên có làm tăng độ không?

Thực ra việc đeo kính không có ảnh hưởng gì đến sự tăng độ. Đeo kính là để nhìn xa cho rõ. Khi đã bị cận thị rồi thì có đeo kính hay không đeo, độ vẫn tăng. Trẻ con đi học phải cho đeo kính để có thể nhìn thấy rõ mọi vật và chữ trên bảng. Khi ra ngoài đường cũng cần đeo kính để có thể nhìn thấy rõ vật ở xa và tránh bụi bậm. Chúng ta hãy tưởng tượng, làm sao cuộc đời thấy "tươi đẹp" được khi mọi vật đều mờ nhòe. Khi nào gần không cần kính mà vẫn thấy rõ hoặc khi ở nhà không cần làm gì bằng mắt thì không cần đeo như khi nghỉ ngơi, nghe nhạc, ngồi nói chuyện... để mắt được thư giãn.

Kính gọng và kính tiếp xúc, nên đeo kính loại nào?

Đối với trẻ em còn đi học nên đeo kính có gọng vì đỡ phiền phức, thao tác dễ. Đối với người lớn, điều này tùy thuộc ý thích cá nhân, nghề nghiệp và cơ thể của từng người. Có người không thích đeo kính gọng vì không muốn cho người khác biết mình bị cận thị, hoặc có mặc cảm, hoặc vì vấn đề thẩm mỹ, hoặc do nghề nghiệp khi đeo kính gọng có những bất tiện. Tuy nhiên, đối với người cận thị nặng, độ cận cao, tuổi còn trẻ nên đeo kính tiếp xúc vì vấn đề thẩm mỹ cũng như bệnh lý giúp cho thị lực tốt hơn. Tuy nhiên không phải là ai cũng thích hợp với kính tiếp xúc vì khi đeo bị dị ứng mắt.

Mổ cận thị có hết được cận không?

Với loại cận thị nhẹ dưới 5 độ, có thể mổ để hết cận khỏi phải đeo kính. Đối với cận thị nặng trên 7 độ thì ở nước ta hiện nay chưa mổ được vì phải dùng loại laser đặc biệt, đắt tiền. Tiêu chuẩn để mổ cận thị là:
Cận dưới 5 độ.
Trên 20 tuổi.
Độ cận đã ổn định.
Không bị bệnh nặng gì ở mắt như tăng áp mắt, bệnh giác mạc...

Biến chứng của cận thị ra sao, có bị mù không?

Với cận thị nặng có nhiều biến chứng như suy thoái võng mạch mạc cận thị, suy thoái pha lê thể, bong võng mạc... làm mắt mờ dần dù có đeo kính. Đối với cận thị nhẹ thì ít hơn nhiều, chỉ có hiện tượng người ta gọi là ruồi bay là phổ biến, tức nhìn thấy những vết đen lởn vởn trước mắt làm người bệnh khó chịu.

Đề phòng và vấn đề thực tế?

Như ta đã thấy những yếu tố gây cận thị thường do di truyền và đời sống hoạt động giáo dục... chủ yếu là những công việc gần mắt. Cuộc sống ngày một phát triển, trẻ em không thể không cho học hành, không cho đến trường, không được làm việc gần mắt như học vi tính, xem tivi. Có thể giảm bớt ảnh hưởng của những yếu tố có thể gây tăng độ:

- Về dinh dưỡng: Cho trẻ bổ sung các loại vitamin như A, B, C, E, Calcium...

- Về sinh hoạt: Những ngày nghỉ nên cho trẻ sinh hoạt ngoài trời, đi picnic, thể dục thể thao nhẹ cho mắt được nghỉ ngơi thư giãn.

- Khi học: Ngồi tư thế thẳng, để sách xa mắt, tránh cúi sát sách, phải đủ ánh sáng, bàn nghế ngồi thoải mái.

- Học 1 hay 2 giờ nên nghỉ 5-10 phút, nhắm mắt lại hay nhìn ra xa qua cửa sổ vào khoảng không cho mắt thư giãn.

- Xoa nhẹ lên mắt cho máu lưu thông, cơ mắt được thư giãn, giảm lực cơ co kéo vào võng mạc lúc học nhiều. Đối với những trẻ bị cận thị nặng nên đi khám bác sĩ hàng năm. Nếu có hiện tượng gì khác ở mắt, hãy đến bác sĩ nhãn khoa hầu phát hiện sớm bệnh bong võng mạc để mổ kịp thời hoặc có biện pháp phòng ngừa.

Quan niệm sai lầm

Có những phụ huynh thấy trẻ bị cận thị nặng rất lo lắng, sợ sau này bị mù nên không muốn cho trẻ đi học. Đây là một quan niệm sai lầm vì loại cận thị nặng có học hay không, thì bệnh vẫn tiến triển. Có điều khác biệt là, có thể hướng nghiệp cho trẻ về sau này học những nghề nào ít phải dùng đến mắt hoặc phải làm việc quá gần mắt.

PHẦN IV: PHÒNG TRÁNH CẬN THỊ HỌC ĐƯỜNG ?

Khi đã bị cận thị, việc đeo kính hoặc dùng thuốc đều không thể ngăn cản bệnh tiến triển. Tật này thường chỉ ngừng hẳn khi tới 25-30 tuổi. Một học sinh bị cận thị lúc mới được phát hiện phải đeo kính 0,5 điốp, thì đến 30 tuổi có thể phải đeo kính 2,5-5 điốp hoặc hơn. Vì vậy, việc phòng bệnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Quá trình học tập và giải trí thiếu khoa học ở tuổi học sinh có thể ảnh hưởng xấu tới khả năng điều tiết của đôi mắt, dẫn tới cận thị học đường. Tật cận thị có 2 biểu hiện chính: độ hội tụ của mắt tăng và trục trước sau của mắt dài quá giới hạn bình thường. Hậu quả là thị lực giảm, mắt không nhìn rõ vật ở xa, chỉ thấy vật ở gần.

Bệnh cận thị hoàn toàn có thể phòng được nếu có sự phối hợp tích cực giữa học sinh, gia đình và nhà trường. Sau đây là một số chỉ dẫn cần được tuân thủ trong sinh hoạt và học tập:

1. Giữ đúng tư thế ngồi khi học

Ngồi thẳng lưng, hai chân khép, hai bàn chân để ngay ngắn sát nền nhà, đầu cúi 10-15 độ. Khoảng cách từ mắt đến sách vở trên bàn học là 25 cm đối với học sinh tiểu học, 30 cm với học sinh trung học cơ sở, 35 cm với học sinh trung học phổ thông và người lớn. Thầy cô giáo và cha mẹ học sinh phải thường xuyên nhắc nhở, không để các em cúi gằm mặt, nghiêng đầu, áp má lên bàn học khi đọc hoặc viết.

2. Lớp học, góc học tập phải đủ những điều kiện cần thiết

Kích thước phòng học; cách sắp xếp bàn ghế, bảng viết phải phù hợp với lứa tuổi để học sinh có thể ngồi đúng tư thế và giữ đúng khoảng cách từ mắt đến sách vở.

Đảm bảo đủ ánh sáng: nơi tối nhất không dưới 30 lux, nơi sáng nhất không quá 700 lux.

Chữ viết trên bảng và trong sách vở phải rõ nét, chiều cao ít nhất của chữ viết là 1/200 khoảng cách từ mắt tới chữ. Ví dụ, khoảng cách từ bảng tới học sinh là 8 m thì chiều cao tối thiểu của cỡ viết trên bảng phải là 4 cm. Chữ trong vở phải có chiều cao ít nhất 1,75 mm cho khoảng cách từ mắt đến vở là 35 cm.

Khi đọc sách buổi tối, cần đèn đủ sáng và có chụp phản chiều. Không dùng đèn ống neon, nên dùng bóng điện dây tóc.

Không viết mực đỏ, mực xanh lá cây. Không đọc sách có chữ quá nhỏ in trên giấy vàng hoặc giấy đen, vì tỷ lệ tương phản giữa chữ và nền quá nhỏ, khiến mắt bị mệt.

Duy trì mỗi tiết học 45 phút, sau đó nghỉ giải lao, đưa mắt nhìn xa, hết co thắt thị giác rồi mới bước vào giờ học tiếp theo.

3. Bỏ những thói quen có hại cho mắt

Không nằm, quỳ để đọc sách hoặc viết bài.

Không đọc sách báo, tài liệu khi đang đi trên ô tô, tàu hỏa, máy bay.

Khi xem ti vi, video phải ngồi cách xa màn hình tối thiểu 2,5 m, nơi ánh sáng phòng phù hợp. Thời gian xem cần ngắt quãng, không quá 45-60 phút mỗi lần xem.

Không tự ý dùng kính đeo mắt không đúng tiêu chuẩn. Khi đeo kình cần tuân thủ hướng dẫn của nhà chuyên môn.

No comments: