Từ xa xưa, loài người đã biết sử dụng các loại động vật săn bắn được để lấy thịt ăn, còn xương nấu thành cao làm thuốc bồi bổ sức khoẻ và chữa trị rất hiệu quả rất nhiều bệnh tật.
Ngày nay, ngành Đông dược vẫn kế thừa các biện pháp chế biến xương động vật thành các loại cao để làm thuốc chữa bệnh. Xin giới thiệu những nét cơ bản về tác dụng trị liệu của một số loại cao động vật thường gặp.
Cao xương báo
Xương báo còn gọi là báo cốt. Tên khoa học là OS Pantherase. Bộ phận sử dụng làm thuốc là toàn bộ xương các loài báo. Đông y cho rằng cao mềm nấu từ xương báo tính hơi ấm, vị cay, mặn, đi vào kinh gan, thận. Dùng làm thuốc bổ toàn thân, có thể dùng thay xương hổ để chữa đau nhức gân xương, tê thấp dưới dạng cao mềm. Ngày uống 5-10g. Người thực nhiệt không nên dùng.
Cao xương gấu
Xương gấu còn gọi là hùng cốt. Tên khoa học là OS Ursi. Bộ phận sử dụng là toàn bộ xương các loài gấu phơi khô. Tính ấm, cay, vị mặn, đi vào kinh gan và thận. Tác dụng bồi bổ khí huyết hư tổn, chân lạnh đau buốt (cước khí), gân xương nhức mỏi, trẻ em trúng phong chân tay co giật cũng dùng ở dạng cao mềm với liều trung bình từ 8-12g mỗi ngày.
Cao xương hổ
Xương hổ còn gọi là hổ cốt, đại trùng cốt. Tên khoa học là OS Tigris. Bộ phận dùng làm cao là toàn bộ xương phơi khô, tính hơi ấm, vị hơi mặn đi vào kinh gan và thận. Thường được dùng phối hợp với các xương thú như hổ báo, gấu, dê, ngựa... để nấu thành cao làm thuốc bổ khí huyết hư tổn. Uống ở dạng cao mềm hay ngâm rượu, ngày 5-10g.
Cao xương khỉ
Còn gọi là hầu cốt. Tên khoa học là OS Cervi. Bộ phận dùng làm cao là toàn bộ xương phơi khô. Tính hơi ấm, vị mặn đi vào thận. Dùng làm thuốc bổ máu, bổ toàn thân. Thường dùng cho phụ nữ kém ăn, kém ngủ, xanh xao, thiếu máu, ra mồ hôi trộm. Dùng dưới dạng cao mềm hoà với mật ong, ngày 5-10g.
Cao xương dê
Còn gọi là dương cốt. Tên khoa học là OS Caprace. Bộ phận dùng nấu cao là toàn bộ xương các loại dê phơi khô. Đông y cho rằng xương cao dê tính ấm, vị mặn; đi vào kinh can, tì, thận. Tác dụng trị liệu: làm thuốc bồi bổ máu, phụ nữ sau sinh cơ thể gầy yếu, ăn kém, ít sữa. Đặc biệt còn dùng xương dê phối hợp với các loài khác như hổ, báo, gấu, khỉ, chó, ngựa... để nấu thành cao làm thuốc bổ toàn thân. Liều dùng thông thường từ 10-20g mỗi ngày.
Cao quy bản
Là dùng yếm rùa khô để nấu thành cao, nên quy bản còn gọi là yếm rùa hay quy giáp. Tên khoa học là Carapax Testudinis. Quy bản tính lạnh, ngọt mặn; đi vào kinh thận, can, tâm, tì. Tác dụng chữa thận âm suy yếu, ù tai nóng nhức trong xương, ho lâu ngày, di tinh, tay, chân, lưng, gối đau nhức. Phụ nữ khí hư, bạch đới. Dùng dưới dạng thuốc sắc, bột, viên hoàn hoặc dạng cao. Nếu là dạng thuốc sắc liều lượng trung bình mỗi ngày từ 12-24g. Nếu là dạng cao ngày dùng từ 10-15g. Cần lưu ý các trường hợp người âm hư mà không nhiệt thì không dùng
Cao mai ba ba
Mai ba ba còn gọi là miết giáp hay thuỷ ngư giáp. Tên khoa học là Carpax Amydae, thuộc nhóm họ ba ba (Trionychadae). Bộ phận dùng nấu cao là mai khô. Mai ba ba tính lạnh, vị mặn, đi vào kinh can, thận, tì phế. Được dùng là thuốc bổ âm, dùng cho người lao gầy, lao lực quá độ, nhức xương, sỏi đường tiết niệu (tiểu ra sỏi), phụ nữ bế kinh. Sử dụng ở dạng bột, sắc hay cao mềm. Liều dùng trung bình mỗi ngày từ 10-30g. Các trường hợp không dùng như âm hư mà không nhiệt, tì hư lại tiêu chảy, phụ nữ đang mang thai.
Thực ra còn nhiều loại cao nữ như cao trăn toàn tính, cao khỉ toàn tính...; các loại cao dán ngoài như cao rết, cao nọc rắn.... Đó là chưa nói đến các loại cao được chế biến từ dược thảo.
Mong rằng những trình bày trên sẽ giúp chúng ta có được một số khái niệm cơ bản về tác dụng và liều dùng thông thường của các loại cao, tránh tình trạng lạm dụng các loại cao từ động vật vốn rất thường gặp.
BS. Hoàng Xuân Đại
No comments:
Post a Comment